Phúc Âm thư Miroslav (
tiếng Serbia: Мирослављево јеванђеље - Miroslavljevo jevanđelje) là một
codex, một
thủ bản trong những di sản viết bằng
chữ Kirin quan trọng nhất của
người Serb và
Nam Slav, là văn bản chữ viết Serbo-Slavic từ thế kỷ 12. Phúc Âm thư Miroslav thuộc loại
Sách Phúc Âm, là một sách phụng vụ để nhà thờ dùng đọc trong năm. Sách được viết cho hoàng thân
Miroslav xứ Hum, anh trai đại hoàng thân
Stefan Nemanja, theo yêu cầu của
Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô bên
sông Lim, nơi thị trấn
Bijelo Polje về sau được dựng lên xung quanh với niên đại cuối thế kỷ 12, khoảng những năm 1180-1191.
[1][2] Thủ bản Miroslav là minh chứng cho quá trình phát triển chữ viết của dân tộc Serb.
[3] Về hình thức, nội dung bản thảo bao gồm đầy đủ các sách Phúc Âm, gọi là aprakos chứa các bài kinh thường nhật sau Lễ Phục sinh, sau Lễ Ngũ tuần, sau Lễ Tân hạ cũng như vào kỳ lễ trọng.
[2] Aprakos này khác biệt với các phiên bản aprakos của Nam Slav và Đông Slav (tiếng Nga cổ), tạo nên điểm độc đáo cho sách, đặc trưng cho những văn bản được xếp vào loại Mstislavl-Vukanov.
[2] Sách là một trong những bản thảo tiếng Slav cổ nhất, đặc trưng bởi độ chính xác, trung thực với nguyên bản, chữ viết rõ ràng.
[2] Sách gồm 181 tờ
giấy da trắng mỏng, mỗi trang chia làm hai cột, viết bằng chữ cái Kirin. Cả sách được trang trí với khoảng ba trăm tiểu hoạ cách điệu cũng như các chữ đầu chương tô màu phủ vàng. Người ta tin rằng cùng với
Phúc Âm thư Vukan, sách được chuyển tới
núi Athos vào thời điểm thành lập
Tu viện Hilandar (khoảng năm 1198). Sách Vukan ở đó cho đến giữa thế kỷ 19 còn sách Miroslav cũng được chuyển đi vào cuối thế kỷ 19.
[4] Phúc Âm thư Miroslav (ra đời khoảng 1180-1191) và Phúc Âm thư Vukan (ra đời khoảng 1196-1202) là những
sách chữ Kirin cổ nhất của người Serb còn tồn tại, nếu không tính đến
Codex Marianus từ thế kỷ 11 nhưng viết bằng
chữ Glagolitic nằm chung trong
ngôn ngữ Shtokavia.Bản thảo Phúc Âm thư Miroslav được lưu giữ trong
Bảo tàng Quốc gia Beograd, ngoại trừ một tờ đang nằm tại Thư viện Quốc gia Nga ở
Sankt-Peterburg.
[5][6] Bản thảo bị hư hại nhiều do chiến tranh và các biến động trong thế kỷ 20 cũng như thời kỳ nằm tại tu viện trước đây, riêng tờ lưu tại Sankt-Peterburg được coi là bảo quản tốt nhất trong cả thủ bản. Người ta cho rằng bản thảo bị hư hại nặng nhất khi được trưng bày trong
tủ kính dưới ánh sáng
đèn ở Bảo tàng Quốc gia trước năm 1966, khiến cho giấy da bị "khô" rất nhanh. Năm 1979, tình trạng bản thảo trở nên đáng báo động đối với một di sản văn hóa đặc biệt quan trọng, dẫn tới việc thành lập quỹ đặc biệt để bảo tồn và khôi phục. Tháng 6 năm 2005, Phúc âm thư Miroslav được
UNESCO đưa vào danh sách
Ký ức thế giới lúc ấy chỉ có 120 tài liệu đặc biệt quan trọng và phổ quát.
[7] Đây là sự xác nhận tầm quan trọng và giá trị đặc biệt của Phúc Âm thư Miroslav, đồng thời khẳng định nghĩa vụ bảo tồn vì lợi ích nhân loại.
[8][9] Năm 2009, Phúc Âm thư Miroslav được đưa vào
Thư viện kỹ thuật số Thế giới của UNESCO.
[10]Sau khi chuyển từ Hilandar đến Beograd năm 1896, Phúc Âm thư Miroslav sống sót qua một thế kỷ 20 đầy biến động lịch sử với dân tộc Serb.
[11]